SỐ LƯỢT TRUY CẬP

5
0
8
4
6
6
1
8
Tin tức sự kiện 24 Tháng Tư 2013 2:45:00 CH

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 38 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc (30/4/1975 – 30/4/2013)

I. Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc:

1. Bối cảnh quốc tế và trong nước:

Trên thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ nổi lên cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới. Mỹ từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương và sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Việt Nam trở thành tiêu điểm hội tụ những mâu thuẫn của thời đại. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc.

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến:

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày nhất, ác liệt nhất và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể phân kỳ cuộc kháng chiến thành năm giai đoạn chiến lược, mỗi giai đoạn có những chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai đoạn cuối tạo bước nhảy vọt lớn đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.

2.1. Giai đoạn thứ nhất từ tháng 7/1954 đến hết 1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.

Tháng 7/1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thắng lợi, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ. Mỹ không chấp nhận các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, xúc tiến kế hoạch xâm chiếm miền Nam nước ta, dùng hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng, diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu, có những khó khăn chưa từng thấy.

Đảng ta đã sớm nhận thức rõ ý đồ xâm lược của Mỹ và luôn nhất quán tinh thần chỉ đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới, trong ba năm (1958 - 1960), ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị về quân sự cho cách mạng cả nước giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên trong phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của ngụy quyền ở các thôn, xã.

2.2. Giai đoạn hai từ 1961 đến giữa 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, chuyển sang “chiến tranh đặc biệt”. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét dồn dân vào ấp chiến lược, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và chính trị, đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.

2.3. Giai đoạn ba từ giữa năm 1965 đến hết 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.

Trước nguy cơ phá sản của “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của Mỹ ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân Xuân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng dù ngoan cố đã phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh.

2.4. Giai đoạn thứ tư từ 1969 đến 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược“Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán.

Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, rút quân về nước nhưng kéo dài và mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia, đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “học thuyết Ních xơn” ở Đông Dương. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta.

2.5. Giai đoạn thứ năm từ cuối năm 1973 đến 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho quân ngụy, lấn đất giành dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.

Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Trong 55 ngày đêm với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, qua năm giai đoạn chiến lược, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới quy mô lớn nhất sau chiến tranh thế giới thứ hai do đế quốc Mỹ gây ra.

3. Ý nghĩa lịch sử :

- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa Tổ quốc ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

 

4. Nguyên nhân thắng lợi:

Nguyên nhân thứ nhất: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Nguyên nhân thứ hai: Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.

Nguyên nhân thứ ba: Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Nguyên nhân thứ tư: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.

Nguyên nhân thứ năm: Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.

II. Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:

1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất, nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc …

2. Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc, cũng thiêng liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.

3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới. Ngày kỷ niệm 30 tháng 4 hằng năm là ngày hội chung, ngày chiến thắng của cả dân tộc, là dịp phát huy mạnh hơn tinh thần hòa hợp, ý chí đoàn kết, thống nhất của mọi người Việt Nam, chung lòng, dốc sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không phân biệt quá khứ, vượt lên những khác biệt về dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế, chính kiến. Chúng ta thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với chính phủ và nhân dân các nước đã từng tham gia chiến tranh Việt Nam, đánh giá cao bước phát triển tích cực trong quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam trong thời gian qua.

4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, thực hiện tốt đường lối đối ngoại đa phương, rộng mở, thêm bạn, bớt thù, tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

5. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới: Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự nghiệp của cha anh trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến; ngày nay là lực lượng xung kích trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

6. Phát huy tri thức, kinh nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay; Quốc phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh, xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.

III. Tiếp tục phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển Quận 8 trong tinh hình hình mới.

            Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới nhiều năm qua có nhiều biến động và diễn biến phức tạp; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước nói chung và thành phố nói riêng cũng gặp nhiều khó khăn, thử thách, tác động trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - chính trị trên địa bàn quận 8. Song với sự nổ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân quận 8 với tinh thần “đồng tâm vượt khó, chung sức tiến lên” đã vượt qua thách thức, tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt được nhiều kết quả nhất định. Kinh tế quận tiếp tục phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, thương mại, xây dựng sản phẩm du lịch; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông; chỉ đạo có kết quả việc thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng, củng cố nâng cao chất lượng sinh hoạt của hệ thống chính trị cơ sở, cải cách hành chính trong Đảng và trong bộ máy quản lý Nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tổ chức chăm lo chu đáo cho diện chính sách, dân nghèo, đối tượng xã hội; công tác giảm nghèo, tăng hộ khá được tập trung thực hiện; các mặt hoạt động văn hóa – xã hội, lễ hội có nhiều chuyển biến. Công tác chính trị tư tưởng gắn với học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được đẩy mạnh. Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được tăng cường; công tác cán bộ được quan tâm; công tám kiểm tra, giám sát được chú trọng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng bộ. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng phong phú, đa dạng, đi vào chiều sâu, đặc biệt là công tác củng cố xây dựng hệ thống chính trị ở khu dân cư.

            Phát huy tinh thần cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển Quận 8 trong tinh hình hình mới, Đảng bộ và nhân dân quận 8 quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ X với phương phướng, mục tiêu như sau:

            1. Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp sạch gắn với tiến trình đô thị hóa. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển. Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội; gắn phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh, tiến bộ và an sinh xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, huy động tốt mọi nguồn lực nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.

            2.  Thực hiện tốt công tác chăm lo đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá”, kịp thời ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Tập trung nâng chất lượng sự nghiệp giáo dục – đào tạo một cách toàn diện, xác định đầu tư giáo dục là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển quận; đầu tư đưa văn hóa phát triển kịp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, văn minh đô thị, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” rộng khắp từ khu phố, tổ dân phố. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện môi trường sống, phòng chống dịch bệnh.

            3. Giữ vững ổn định chính trị, làm chuyển biến tình hình trật tự an toàn xã hội; củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, phục vụ tốt sự nghiệp phát triển của địa phương.

            4. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng. Bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp phát triển và gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng việc thực hiện “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.

5. Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật.

 

BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦY QUẬN 8 


Số lượt người xem: 6475    

TIN MỚI HƠN

TIN ĐÃ ĐƯA

Xem tiếp
Xem theo ngày Xem theo ngày
Không tìm thấy video nào trong thư viện này
Tìm kiếm